Probiotics được xem là sự bổ sung vi sinh sống nhằm phát huy tác dụng có lợi trên các cơ thể vật chủ cũng như cải thiện các thông số môi trường. Probiotics đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc cải thiện tình trạng tăng trưởng, sự sống và sức khỏe của các loài thủy sản nuôi.


Để đáp ứng nhu cầu thủy sản ngày càng tăng từ dân số ngày một phát triển, nuôi trồng thủy sản đã trở thành ngành sản xuất thực phẩm động vật phát triển nhanh nhất. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản đã dẫn đến sự xuất hiện của các vi khuẩn kháng kháng sinh. Probiotics được xem là sự bổ sung vi sinh sống nhằm phát huy tác dụng có lợi trên các cơ thể vật chủ cũng như cải thiện các thông số môi trường. Probiotics đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc cải thiện tình trạng tăng trưởng, sự sống và sức khỏe của các loài thủy sản nuôi. Đánh giá này nhằm mục đích để làm nổi bật việc Streptomyces có thể là một loài vi khuẩn có lợi cho chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản. Các nghiên cứu cho thấy rằng các thức ăn bổ sung Streptomyces có thể bảo vệ cá và tôm không bị nhiễm các mầm bệnh cũng như gia tăng sự phát triển của các sinh vật dưới nước. Hơn nữa, những hạn chế của Streptomyces như là một chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản cũng được nhấn mạnh và các giải pháp cho những hạn chế này cũng được đưa ra. Tag: may thoi khi

Thống kê cho thấy rằng sản lượng nuôi trồng thủy sản toàn cầu tiếp tục tăng trưởng. Trong khi đó, sản lượng ​​thủy sản đánh bắt toàn cầu đã ổn định ở mức khoảng 90 triệu tấn kể từ giữa những năm 90 (Mathieson, 2012). Theo báo cáo của Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO, 2014), sản lượng nuôi trồng thủy sản toàn cầu năm 2012 đã đạt được một mức cao mới là 90,4 triệu tấn bao gồm 66,6 triệu tấn thủy sản làm thực phẩm và 23,8 triệu tấn tảo nhằm đáp ứng với sự gia tăng nhu cầu thủy sản. Hiện nay, có số liệu báo cáo cho thấy thủy sản cung cấp trung bình 1/5 tổng lượng đạm động vật cho dân số thế giới ước tính khoảng 7,3 tỷ người (Moffitt và Cajas-Cano, 2014). Tuy nhiên, các dịch bệnh lớn đã được ghi nhận trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản ở nhiều nơi trên thế giới do mật độ thủy sản nuôi tăng lên, mật độ quá dày đặc và thiếu quản lý vệ sinh cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng của nuôi trồng thủy sản. Sự lây lan dịch bệnh trong NTTS dẫn đến thiệt hại kinh tế toàn cầu do dịch bệnh ước tính dao động khoảng 1/4 tỉ USD mỗi năm (Bondad-Reantaso et al., 2005). Ví dụ, các bệnh nhiễm trùng do virus (hội chứng đốm trắng, bệnh đầu vàng và hội chứng Taura) trong ngành công nghiệp nuôi tôm gây thiệt hại hàng tỷ đô la trên toàn thế giới (Flegel, 2012;. Lightner et al, 2012). Ngoài ra, vi khuẩn gây bệnh như vi khuẩn Vibrio sp. (Vibrio harveyi, V. parahaemolyticus, V. campbellii) gây ra bệnh phát sáng trong nuôi tôm dẫn đến tỷ lệ tôm chết từ 50 -100% và tình trạng nhiễm vi khuẩn vibrio ở người (Shruti, 2012; Letchumanan et al, 2014;.. Wang et al, 2015).

Kể từ khi Fleming phát hiện ra penicillin vào năm 1928 (Fleming, 1944), kháng sinh đã đóng vai trò có một không hai trong phòng ngừa và điều trị bệnh cho con người và động vật. Ngoài việc sử dụng trong y học cho con người, kháng sinh được sử dụng rộng rãi trong thức ăn gia súc và nuôi trồng thủy sản như là biện pháp dự phòng hoặc để nâng cao tốc độ tăng trưởng (Marshall và Levy, 2011). Do đó, thuốc kháng sinh được sử dụng rộng rãi để đảm bảo sự phát triển trong nuôi trồng thủy sản thâm canh và quy mô lớn. Tuy nhiên, việc sử dụng không kiểm soát và bừa bãi kháng sinh đã làm tăng sự xuất hiện của vi khuẩn kháng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản (Huang et al, 2015;.. Letchumanan et al, 2015a, b, c) và các ao nuôi trồng thủy sản cũng đã được chứng minh là các bể chứa các gien kháng kháng sinh (Tomova et al, 2015;.. Xiong et al, 2015). Những gien kháng thuốc kháng sinh có thể bị các mầm bệnh của con người và động vật hấp thu thông qua quá trình chuyển gien ngang (Tomova et al., 2015), do đó dẫn đến việc điều trị các bệnh truyền nhiễm gặp khó khăn. Hơn nữa, các bằng chứng gần đây về dư lượng kháng sinh trong các sinh vật nuôi có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe tiềm năng cho người tiêu dùng (Chen et al, 2015;.. Pereira et al, 2015;. Phạm et al, 2015). Tag: canh quat oxy

Để khắc phục sự xuất hiện liên tục của các mầm bệnh kháng thuốc do lạm dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản, một giải pháp thay thế cho thuốc kháng sinh là rất cần thiết để phòng và điều trị bệnh và cũng cải thiện chất lượng và tính bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản. Chế phẩm sinh học có thể là một lựa chọn thay thế cho kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản, chứng minh các tác dụng có lợi đối với cơ thể vật chủ như chống lại bệnh tật, cải thiện sự tăng trưởng và kích thích phản ứng miễn dịch của vật chủ đối với các bệnh nhiễm trùng (Newaj-Fyzul et al, 2014;. Hai, 2015 ). Vì vậy, mục đích của nghiên cứu này là để cung cấp một cái nhìn sâu sắc về việc sử dụng vi khuẩn Streptomyces như một thay thế cho thuốc kháng sinh, đây là một probiotic trong việc kiểm soát dịch bệnh và nâng cao sức khỏe và chất lượng trong nuôi trồng thủy sản. Hơn nữa, bài tổng quan này cũng thảo luận về những triển vọng và những hạn chế của Streptomyces với vai trò là một probiotic trong nuôi trồng thủy sản. Tag: thiet bi tao oxy

Probiotics

Thuật ngữ “probiotic” ban đầu đã được định nghĩa là “các sinh vật và các chất góp phần cân bằng vi khuẩn ruột” (Parker, 1974). Sau đó nó đã được sửa đổi là “thức ăn bổ sung vi sinh vật sống ảnh hưởng có lợi đến động vật chủ bằng cách cải thiện sự cân bằng vi khuẩn đường ruột của nó”(Fuller, 1989). Trong khi đó, trong trường hợp của động vật thủy sản có sự tương tác gần gũi hơn với môi trường bên ngoài so với các sinh vật trên cạn, môi trường bên ngoài và việc cho ăn có tác động đáng kể đến tình trạng vi khuẩn của các loài thuỷ sản. Do đó, Verschuere et al. (2000) cho rằng một probiotic cho môi trường nước nên được biết đến như một sự bổ sung vi khuẩn sống mang lại tác dụng có lợi đối với vật chủ bằng cách điều chỉnh các cộng đồng vi khuẩn trên cơ thể vật chủ hoặc môi trường xung quanh. Gần đây, probiotic đã được mô tả như là thành phần của một tế bào vi sinh vật mang lại tác dụng hữu ích trên vật chủ bằng cách cải thiện khả năng kháng bệnh, thúc đẩy sự tăng trưởng, sử dụng thức ăn và tình trạng sức khỏe, thông qua việc đạt được sự cân bằng vi khuẩn trong cả vật chủ và môi trường xung quanh (Hải, năm 2015). Các tài liệu đã cho thấy những tác dụng của chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản bao gồm (i) chất hoạt hóa tăng trưởng, (ii) sản xuất các hợp chất ức chế, (iii) cải thiện sự tiêu hóa chất dinh dưỡng, (iv) cải thiện chất lượng nước, (v) tăng cường phản ứng miễn dịch, và (vi) cạnh tranh chất dinh dưỡng (Defoirdt et al, 2007; Martínez Cruz et al, 2012). Để đạt được trạng thái probiotic, các vi sinh vật phải đáp ứng đầy đủ một số tiêu chí về an toàn sinh học và chức năng. Các đặc tính mong muốn của một probiotic tiềm năng bao gồm: (i) không có hại đối với vật chủ; (ii) khả năng tồn tại trong quá trình di chuyển đến địa bàn hoạt động; (iii) năng lực tồn tại và sinh sôi trong vật chủ; (iv) không có gien độc hoặc các gien kháng kháng sinh (Hải, 2015). Các vi sinh vật thường được sử dụng như chế phẩm sinh học là Lactobacillus acidophilus, Lactobacillus casei, Bacillus sp, Bifidobacterium bifidum, Lactococcus lactis và nấm men Saccharomyces cerevisiae. (Ouwehand et al, 2002;.. Salamoura et al, 2014). Tuy nhiên, người ta ít chú ý đến việc sử dụng vi khuẩn bức xạ như là chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản dù đã được biết đến rộng rãi như là vi khuẩn sản sinh nhiều chất chuyển hóa thứ cấp, đặc biệt là các giống (Butler, 2008). Chi Streptomyces chứng minh kết quả đầy hứa hẹn như probiotics (Das et al, 2010;.. Augustine et al, 2015). Đánh giá này nhằm mục đích thảo luận về triển vọng của việc sử dụng Streptomyces như một probiotic trong nuôi trồng thủy sản.

Nguồn: 2lua.vn/article/vi-khuan-streptomyces-probiotics-tiem-nang-trong-nuoi-trong-thuy-san-5cb15850425cc5550a6d0375.html