1.GIỐNG VÀ khác biệt
U lành và u cường bạo ở đây là chỉ khối u không phải ung bứu và khối u ung thư. Khối u ko có tài năng lấn chiếm hay thâm nhập vào các cơ quan hay tổ chức phụ cận và ko sở hữu tài năng “thả” tế bào của nó vào loại máu tuần hoàn hay loại bạch huyết để đi đến vững mạnh ở 1 hay đa dạng cơ quan khác trong thân thể (di căn) là khối u lành hay u lành.
ngược lại, khối u có khả năng xâm lấn hay thâm nhập vào những cơ quan hay tổ chức phụ cận và có tài năng “thả” tế bào của nó vào cái máu tuần hoàn hay chiếc bạch huyết để đi đến lớn mạnh ở một hay rộng rãi cơ quan hay doanh nghiệp khác trong thân thể (di căn) là khối u bất lương hay khối u ung độc.

Như vậy, u lành là u phát xuất từ cơ quan gì (da, gan, não, phổi, xương…) thì chỉ vững mạnh ở cơ quan đấy, bị “vỏ” của cơ quan đó chặn lại ko cho phép tế bào của khối u đấy vượt ra ko kể thâm nhập sang cơ quan phụ cận.
Về giai đoạn xuất hiện u lành và u bất lương mang các điểm giống nhau. thường ngày tế bào cũng sở hữu một tuổi thọ nhất định. Sau 1 số chu kỳ sinh sản (sinh sản vô tính/tự phân đôi), một thời kì hoạt động theo chức năng, tế bào đi vào quy trình chết định sẵn (chết theo chương trình). lúc 1 tế bào “già” chết đi, một tế bào “non” ra đời thay thế cả vị trí trong khoảng trống và tính năng, lúc ấy ko sinh ra khối u.
Trong 1 số nếu, tế bào già không chết đi, tế bào mới vẫn nên hình thành, những tế bào thế hệ vẫn với công dụng như tế bào hình thành nó (biệt hóa) lúc ấy khối u lành hình thành.
ấy là kết quả của giai đoạn bỗng biến gien trong u lành. trường hợp công đoạn chợt biến ko chỉ thế mà kèm theo những bỗng nhiên biến khác nữa dẫn tới sự sản xuất (nhân đôi) không kiểm soát, tế bào “non” cũng sản xuất, ko có chức năng (không hoặc kém biệt hóa) cơ mà sản hình thành các chất kích thích nâng cao sinh huyết mạch mới, những chất có tài năng tiêu hủy “vỏ” khối u để xâm lấn vào cơ quan doanh nghiệp xung quanh và tách khỏi khối u ban sơ “chui” vào các mạch máu thế hệ hay mạch bạch huyết tới định cư và lớn mạnh ở một hay rộng rãi cơ quan khác trong cơ thể (di căn) thì đó là khối u độc ác.
Như vậy, nơi như thế nào u cường bạo mang thể hiện ra thì địa điểm đấy u lành cũng với thể xuất hiện, u lành với thể với tên “cơ quan” nhưng mà nó xuất hiện như: u xương lành, u buồng trứng lành, u nang tuyến giáp trạng lành, u xơ tử cung, u nang gan lành… u lành cũng với thể mang tên tế bào, tổ chức hình thành nó như: u mỡ (lipoma), u xơ (fibroma), u xơ thần kinh (neurofibroma), u cơ vân (rhabdomioma), u cơ suôn sẻ (leiomyoma), u sụn (chondroma)…
Như trên đã phân tách, như vậy, u lành thường tăng trưởng lừ đừ hơn u ác; triệu chứng u lành thường với tính tại chỗ hơn u bất lương. bên cạnh đó, nó phụ thuộc vào vị trí khối u và cội nguồn tế bào. tổng thể, u bất lương xoành xoạch doạ dọa tính mệnh người bệnh thì u lành phần lớn “lành” hơn.
phương pháp phân biệt u lành và u ác độc
cách phân biệt u lành và u ác độc
2.U ác HAY KHỐI U ung nhọt
Cho đến nay người ta đã biết với đến trên 200 mẫu ung bứu nhưng loài người có thể bận bịu, trong ấy, phần lớn xuất hiện khối u (u ác). Trong tiếng Việt, tên những bệnh ung độc thường gắn “ung thư” bằng tên của cơ quan đó như: ung nhọt vú, ung bứu cổ tử cung, ung bứu phổi, ung thư gan, ung thư dạ dày, ung độc đại trực tràng… bên cạnh đó, có thể chia ung độc ở người làm nhị chiếc phụ thuộc nguồn gốc xuất hành của tế bào ung nhọt.
ung độc lên đường từ tổ chức câu kết như: cơ, xương, mỡ, huyết mạch, dây tâm thần, công ty lym pho (hạch bạch huyết, tế bào lỵm pho)… có tên chung ung bứu doanh nghiệp liên kết (với tên bình thường ở đuôi tiếng Latin là Sarcoma).
dòng tế bào ung thư khởi hành từ tổ chức biểu mô như: da, niêm mạc phủ đường hô hấp, đường tiêu hóa, đường tiết niệu, gan, thận, và các tuyến nội, ngoại tiết… mang tên phổ biến là ung thư biểu mô (với tên phổ biến ở đuôi tiếng Latin là Carcinoma).
Mỗi dòng ung thư, mỗi bệnh ung thư sở hữu công đoạn tiến triển tự nhiên nhanh, chậm rì rì và di căn trước sau khác nhau; mô thức được điều trị khác biệt và phục vụ với các cách thức điều trị khác nhau. Và bởi vậy, tiên lượng cho mỗi chiếc, mỗi bệnh ung độc cũng không giống nhau.
Thậm chí cũng là ung độc da mà xuất phát từ tế bào biểu mô đáy thì hầu như chơi có di căn và không dễ chết người, nhưng mà trường hợp xuất hành từ tế bào biểu mô hắc tố thì hoàn toàn ngược lại.
Cũng là ung nhọt biểu mô tuyến giáp trạng nhưng tế bào thể biệt hóa có tiên lượng hoàn toàn phải chăng thì trái lại, tế bào thể không biệt hóa với tiên lượng cực kỳ ko thấp. bởi vậy, chẳng những buộc phải ứng dụng những phương pháp chẩn đoán không giống nhau mà ứng dụng những mô thức điều trị cũng khác biệt. ko chỉ chẩn đoán xác định bệnh ung nhọt, quá trình bệnh nhưng mà còn chẩn đoán dòng tế bào, mức độ biệt hóa tế bào.
vừa rồi, chẩn đoán chợt biến gien trong đa dạng bệnh ung nhọt đã nên tiến hành như: bỗng biến gien trong ung nhọt vú, ung độc phổi, ung bứu đại – trực tràng… Kết quả của những xét nghiệm này đã được ứng dụng trong lâm sàng và đem lại đa dạng hứa trong điều trị bệnh ung thư trong tương lai ko xa.
  • [replacer_a]
  • [replacer_a]
  • [replacer_a]

3.U LÀNH
nếu với 200 dòng u bất lương nhưng mà loài người mang thể bận rộn thì cũng sở hữu chừng áy chiếc u lành, thậm chí sở hữu thể rộng rãi hơn. ngoài những ưu điểm phổ biến khác biệt và giống nhau như trên, tiếng Việt khái quát thường phải kèm tính từ “lành tính” đi kèm như: u xương lành tính, u tuyến giáp lành tính, u cơ trơn tử cung (mà rộng rãi người quen gọi u xơ) lành tính, u phì đại tuyến tiền liệt lành tính.
U lành mang các loại sống sót với con người suốt đời nhưng mà không dễ tổn hại nào với chủ nhân của nó như: nốt ruồi (một dạng u da) ở địa điểm bí mật, hay mang những u chỉ dễ ảnh hưởng về thẩm mỹ như u tuyến giáp địa phương (có các bệnh nhân sở hữu theo một u tuyến giáp nặng tới hàng kilogram trong đầy đủ cả đời của họ). có thiếu phụ với trong mình u nang buồng trứng nặng tới 15 kilogram trong đa số năm cứ tưởng mình bị chửa “voi”.
tổng thể, dù u lành có phát triển chậm rì rì nhưng mà theo thời gian, số tế bào béo lên về mặt số lượng để phân thành khối u, chúng dù nhiều dù ít đều gây nên “hiệu ứng khối” (Mass effects) nhất là u xuất phát trong một “khuôn bọc” chắc chắc như: u nang gan, u máu trong gan, u máu trong não, u màng não tủy lành tính… Chúng cũng gây hội chứng chèn lấn.
những u ở gan như trên cũng gây được tức nặng vùng hạ khuông buộc phải như u gan ác độc tính cũng sở hữu thể dọa vỡ lẽ.
những u lành ở não hay màng não tủy như đã nhắc gây chèn lấn não, tủy sống, gây nâng cao áp lực nội sọ, dễ liệt thần kinh trung ương, liệt tủy… khi này đề nghị điều trị, thỉnh thoảng sinh mạng cũng bị nạt dọa. u lành với thể chèn ép những dây thần kinh, mạch máu gây đau hoặc tổn thương thần kinh, gây thiếu máu có thể dẫn đến hoại tử những doanh nghiệp, cơ quan ở phía ngoại vi.
những u lành của những tuyến nội tiết đôi khi gây được các “hội chứng ko phải lành” chút như thế nào. u tiết Insulin của tuyến tuỵ (Insulinoma) dễ hạ đường huyết cường bạo tính, u vỏ tuyến thượng thận lành tính gây hội chứng cao huyết áp kịch phát (Phyochromacytoma) với thể gây chảy mậu não bất kỳ lúc nào dẫn đến tử vong, u tiết gastrin (Gastrinoma) dễ loét dạ dày đa ổ và chảy máu dữ dội.
u tuyến yên ổn lành ở trẻ bé gây hội chứng “người khổng , lồ”, ở người bự dễ hội chứng “to” đầu chi… phổ biến u lành lúc này được gọi là u “độc”, khác lạ u tuyến giáp trạng cường công dụng (bệnh basedow). cho nên, gọi là u lành nhưng vẫn càn được khám xét, đánh giá chu đáo và đưa ra chỉ định điều trị hợp lí, kịp thời.
tổng thể, u lành ác độc “tính hóa” chỉ gặp ở một số bệnh tương đối thi thoảng. tỉ dụ bệnh đa u xơ tâm thần, trong hàng trăm chiếc u khắp bề mặt cơ thể (bệnh Von Recklinghausen) mang thể mang một đôi loại độc ác tính hóa. Bệnh đa polyp gia đình, sở hữu hàng ngàn dòng polyp trong lòng ruột già, bệnh di truyền gien trội vì đột nhiên biến gien APC, trước 20 – 25 tuổi mọi các polyp đều lành tính nhưng bắt đầu 30 tuổi bị cường bạo tính hóa, tới 35 – 40 tuổi mọi những bệnh nhân đều bị ung độc đại tràng. các người này nên nên cắt bỏ mọi ruột già dự phòng trước 20 tuổi.
Nhìn thông thường, phương pháp điều trị u lành chủ đạo là phẫu thuật. giải phẫu cắt bỏ khối u thường nên chỉ định khi khối u gây chèn ép như: cắt bỏ u màng não, tủy dễ chèn ép tủy sống và công ty não.
Mở cửa sổ hay cắt bỏ u nang gan, u nang thận giải chèn ép ngừa vỡ lẽ nang khi va chạm mạnh. những khối u xương hay u sụn lành tính nhưng thường chèn ép các huyết mạch thần kinh quanh đó cũng phải được lấy đi. Hoặc u lành nên chỉ định cắt bỏ bởi vì yếu tố thẩm mỹ như u mỡ vùng đầu mặt cổ.
Điều trị những u lành tuyến nội tiết thường ko dễ dàng nhưng mà bắt buộc phối hợp giữa những nhà nội tiết học và các nhà giải phẫu như u tuyến thượng thận. đôi khi buộc phải phải đến các nhà “xạ trị” như: u tuyến lặng, u tuyến giáp trạng sở hữu cường chức năng, u quái buồng trứng nói chung là lành tính nhưng mà chỉ GÓ mô bệnh học thế hệ xác định được sở hữu ác nghiệt tính ko (loại u quái bất thục sản). “U xơ” tuyến vú ở thiếu nữ trên 35 tuổi cũng chỉ khẳng định u lành bằng “bộ ba chẩn đoán”: lâm sàng (-), X-quang vú (-), tế bào (-)…
Người ta thường gọi chuyên khoa UNG – BƯỚU do nghiên cứu chẩn đoán điều trị ung độc (U ác) là mảng vô cùng to, nhưng nghiên cứu chẩn đoán điều trị BƯỚU (ám chỉ u lành) cũng ko kém phần quan yếu.
trước tiên, buộc phải chẩn đoán phân biệt u lành hay u độc ác nhưng nhiều khi bằng các phương pháp chẩn đoán siêu văn minh vẫn chạm mặt gian khổ, về điều trị tuy với đơn giản và đem lại hiệu quả khỏi bệnh hoàn toàn cao hơn nhưng mà phổ biến khối u lành lúc điều trị cũng không phải lúc như thế nào cũng thuận lợi.
Hình như, các nghiên cứu về sinh bệnh học của u lành như: hội chứng PTEN Hamartoma, bệnh Đa polyp gia đình, bệnh Von Hippel – Lindau… các bệnh liên quan đến di truyền và với thể chuyển thành ung nhọt như là các nghiên cứu về di truyền học về khối u. Rõ rệt là không giống nhau giữa u lành và u ác nghiệt nhưng mà mang các điểm hệt nhau cần phải nghiên cứu kỹ hơn về sinh vật học để có thể hiểu thêm về ung bứu.